Dưỡng Sinh Chủ

Dưỡng Sinh Chủ

A. Ngô sinh dã hữu nhai, nhi tri1 dã vô nhai; dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ!2

Dĩ nhi vi tri giả, đãi nhi dĩ hĩ. Vi thiện vô cận danh, vi ác vô cận hình. Duyên đốc3 dĩ vi kinh, khả dĩ bảo thân, khả dĩ toàn sinh, khả dĩ dưỡng thân, khả dĩ tận niên. 4


CHÚ
1.     Tri 知: ở đây có nghĩa là sự hiểu biết theo nhị nguyên; nhân đó mới có sự lo âu, nghĩ ngợi, do lòng đèo bòng tham muốn chạy theo ngoại vật cũng như chạy theo cái học trục vật. Lão Tử bảo: “Vi học nhật ích”(為 學 日 益).
2.     “ Theo Trang Tử, ở thiên Tề Vật, thì không có gì là thật phải, thật quấy, thật thiện, thật ác một cách tuyệt đối. Có cái thiện không nên làm, có cái ác cần phải làm, để lập lại thế quân bình. Nhưng làm việc thiện không nên vì danh (tức là vị ngã), làm việc ác không nên vì nó mà lụy thân: cả hai đều làm thương sinh cả.
3.     Duyên đốc 緣 督. Duyên 緣 có nghĩa thuận 順; đốc 督là giữa(中). Muốn giữ được đạo dưỡng sinh, cần ăn ở mực thước, đừng có cái gì thái quá. No quá, đói quá không nên; vui quá, buồn quá cũng không nên.
4.     Nếu làm việc thiện (ám chỉ các việc phải, việc lành) thì coi chừng, đừng để sa vào cái bẫy của tấm lòng hiếu danh; còn làm việc chẳng phải (sái với phép nước, sái với luân lý đạo đức của xã hội mình đang sống) thì phải phòng người trong xã hội trừng phạt lên án. Tránh hai lẽ cực đoan ấy, mà dùng đến trung đạo và nên lấy đó làm phương châm xử thế thì suốt đời có lẽ sẽ giữ được mình, có thể toàn được sinh mạng, hưởng được hết tuổi trời.
“Làm sái với phép nước để đến bị xã hội tru lục, đành rằng, đó là không biết cách phòng hoạn cho bản thân, nhưng làm việc thiện, làm việc phải để được tên tuổi vang lừng trong thiên hạ, cũng chưa phải là biết cách phòng hoạn nữa. Bởi vậy, ở thiên Nhơn Gian Thế sách Trang Tử cũng có câu:“Cây trên núi, tự nó là “cừu địch của nó...Cây quế ăn được, nên bị đốn. Cây sơn dùng được, nên bị chặt”. Con người mà có tài và để cho người người đều biết mình là có tài, thì sẽ như cây sơn, cây quế...bị chặt, bị đốn.”Người ta đều biết cái lợi của hữu dụng, mà không biết cái lợi của vô dụng.”


DỊCH NGHĨA

DƯỠNG SINH CHỦ

A. Sinh lực của ta thì có hạn, mà sự muốn biết của ta thì không bờ bến. Đem cái có hạn (như sinh lực của ta) để mà chạy theo cái không bờ bến (như lòng ham muốn của ta) là nguy vậy! Đã biết thế, lại không dừng, càng nguy hơn nữa. Làm việc thiện mà không bị danh ràng buộc; làm việc ác mà không bị hình phạt tru lục. Thuận theo con đường giữa mà đi, thì có thể giữ được thân mình, có thể toàn được sinh mạng, có thể nuôi dưỡng mẹ cha và có thể hưởng được hết tuổi trời.


“B. Bào Đinh1 vi Văn Huệ Quân2 giải ngưu3, thủ chi sở xúc, kiên chi sở ỷ, túc chi sở lý, tất chi sở kỳ, hoạch nhiên hướng nhiên tấu đao hao nhiên, mạc bất trúng âm, hợp ư Tang Lâm chi vũ, nãi trúng Kinh Thủ chi hội.
Văn Huệ Quân viết: “Hi, thiện tai! Kỹ khái chí thử hồ?”
Bào Đinh thích đao đối viết: “Thần chi sở háo giả, Đạo dã. Tiến hồ kỹ hĩ. Thủy, thần chi giải ngưu chi thời, sở kiến vô phi ngưu giả, tam niên chi hậu, vị thường kiến toàn ngưu dã. Phương kim chi thời, thần dĩ thần ngộ nhi bất dĩ mục thị, quan tri chỉ, nhi thần dục hành, ỷ hồ thiên lý, phê đại khước, đạo đại khoản, nhân kỳ cố nhiên, kỹ kinh khẳng khải chi vị thường, nhi huống đại qua hồ. Lương bào tuế cánh đao, cát dã tộc bào, nguyệt cánh đao, chiết dã. Kim thần chi đao thập cửu niên hĩ, sở giải sổ thiên ngưu hĩ, nhi đao nhẫn nhược tân phát ư hình. Bỉ “tiết giả hữu gian, nhi đao nhẫn giả vô hậu; dĩ vô hậu nhập hữu gian4, khôi khôi hồ kỳ ư du nhẫn tất hữu dư địa hĩ. Thị dĩ thập cửu niên nhi đao nhẫn nhược tân phát ư hình. Tuy nhiên mỗi chí ư tộc, ngô kiến kỳ nan vi, truật nhiên vi giới, thị vi chỉ, hành vi trì, động đao tối vi, hoách nhiên, dĩ giải, như thổ ủy địa. Đề đao nhi lập, vi chi tứ cố, vi chi trừ mãn chí. Thiện đao nhi tàng chi.”
Văn Huệ Quân viết:
“Thiện tai! Ngô văn Bào Đinh chi ngôn, đắc dưỡng sinh yên.”


CHÚ
1.     Bào 庖: là người đầu bếp(庖 人). Ở đây lấy nghề làm họ.
Đinh 丁: là tên của người đầu bếp. Theo Chu Quế
Diệu dẫn Thích Văn(釋 文:庖 丁,丁 其 名 也).
2.     Văn Huệ Quân 文 惠 君: tức là Lương Huệ Vương 梁 惠 君.
3.     Ngưu 牛: là bò. (Ta thường nhận lầm chữ 牛 là trâu. Con trâu gọi là thủy ngưu 水 牛).
4.     Ở đây, đọc là gian: hai chữ nầy cổ văn dùng lẫn nhau.”

DỊCH NGHĨA

“B. Bào Đinh mổ bò cho Văn Huệ Quân.
Lúc ra thịt, điệu bộ của tay động, của vai đưa, của chơn đạp, của gối chạm, tiếng da xương lìa nhau, tiếng dao cạo cắt đều trúng cung bực, hợp với điệu múa Tang Lâm, với bài nhạc Kinh Thủ.
Văn Huệ Quân nói: “Hay thật! Nghệ thuật đến đó là cùng!”
Bào Đinh buông dao, thưa rằng: “Cái chỗ ưa thích của thần, là Đạo. Ban sơ, lúc ra thịt một con bò, chỗ mà thần chỉ có thấy mà thôi, là con bò. Về sau ba năm, thần không còn thấy con bò nữa. Bấy giờ, thần không dùng con mắt để nhìn, mà dùng cái ‘thần’ để xem: ngũ quan dừng lại, mà ‘thần’ thì muốn đi, nương theo thiên lý. Tách các gân lớn, lùa các khớp lớn, nhân chỗ cố nhiên của nó mà cắt. Bắp thịt còn không xắt qua, huống chi là khớp xương to. Người bếp thường mỗi tháng thay dao một lần, vì họ chặt. Nay con dao của thần đã dùng mười chín năm; số bò đã mổ có trên nghìn con, vậy mà dao như mới mài xong. “Các khớp xương kia có kẽ hở mà lưỡi dao nầy thì mỏng. Lấy cái bề mỏng của con dao mà đưa vào chỗ kẽ, thì rộng có thừa. Vì vậy mà lưỡi dao đã dùng mười chín năm nay vẫn còn sắc như mới mài. Tuy vậy, mỗi khi gặp những chỗ gân xương sát nhau quá cảm thấy khó làm, thì thần phải nhìn kỹ, hành động chậm lại; con dao cử động một cách rất nhẹ nhàng, thế mà thịt lại đứt và rơi xuống như bùn rơi xuống đất. Bấy giờ thần cầm dao đứng yên, ngảnh nhìn bốn phía, đắc ý vì được con dao tốt, rồi đem cất nó đi. . .”

“Văn Huệ Quân nói: “Hay biết chừng nào! Ta nghe lời nói của Bào Đinh mà hiểu được cái đạo dưỡng sinh!”


C. Công Văn Hiên kiến Hữu Sư1 nhi kinh viết: “Thị hà nhơn dã? Ô hồ giới2 chi? Thiên dư, kỳ nhơn dư?”
Viết: “Thiên dã, phi nhơn dã. Thiên chi sinh thị sử độc dã. Nhơn chi mạo hữu dư3 dã; dĩ thị tri kỳ thiên dã, phi nhơn dã.”
Trạch trĩ thập bộ nhứt trác bách bộ nhứt ẩm; bất kỳ súc hồ phàn4 trung, thần tuy vượng5, bất thiện dã.


CHÚ
1.     Hữu Sư 右 師: một tước quan.
2.     Giới 介: Một chơn. Người một chơn.
3.     Hữu dư 有 與: hai chơn cùng đi(兩 足 並 行 也).
“4.     Kỳ 蘄: cầu mong.”

“Phàn 樊: cái lồng.
5.     Đọc là vượng 旺.

DỊCH NGHĨA

C. Công Văn Hiên thấy vị quan Hữu Sư mà kinh ngạc:
- Ấy là ai đó vậy? Tại sao mà lại chỉ còn có một chơn? Trời làm ra thế chăng? Hay người làm ra thế chăng?
Hữu Sư đáp:
- Do Trời đấy, không phải do người đâu. Trời sinh ta, bắt phải một chơn. Hình dung của con người thì phải có hai chơn cùng đi mới được. Vì vậy, mới biết rằng, đó là do Trời, chứ không phải do người làm ra.
Con trĩ ở trong chầm, mười bước đi, một lần mổ, trăm bước đi, một lần uống, nhưng nào có mong được nuôi dưỡng ở trong lồng. Thần thái tuy khỏe, nhưng ai đâu có ưa việc ấy.

⸈⸈⸈


“D. Lão Đam tử. Tần Thất điếu chi, tam hào nhi xuất. Đệ tử viết: “Phi Phu tử chi hữu da?”
Viết: “Nhiên.”
“Nhiên tắc điếu yên nhược thử khả hồ?”
Viết: “Nhiên. Thủy dã ngô dĩ vi kỳ nhơn dã, nhi kim phi dã. Hướng ngô nhập nhi điếu yên, hữu lão giả khốc chi như khốc kỳ tử, thiếu giả khốc chi như khốc kỳ mẫu. Bỉ kỳ sở dĩ hội chi, tất hữu bất ky ngôn nhi ngôn, bất kỳ khốc nhi khốc giả, thị độn thiên bội tình1 vong kỳ sở thọ, cổ giả vị chi độn thiên chi hình. Thích lai, phu tử thời dã.
Thích khứ2, phu tử thuận dã. An thời nhi xử thuận, ai lạc bất năng nhập giả.”
“Cổ giả, vị thị Đế3 chi huyền giải4.”
“Chỉ cùng ư vi tân, hỏa truyền dã, bất tri kỳ tận5 dã.”


CHÚ
1.     Bội tình 倍 情: Tình, là tình cảm vui buồn (vui được, buồn mất) của thường nhơn chưa huyền đồng với tạo vật(未 玄 同 之 物 我).
2.     Thích lai 適 來 là chỉ về cái sống; thích khứ 適 去 là chỉ về cái chết.
3. “Chữ 帝 (đế) là ám chỉ Tạo hóa, Tự nhiên (không phải là Thượng đế theo quan niệm Thần quyền).”

“4.     Huyền giải 縣 解: Huyền, là cột lại; giải, là mở ra. Ở thiên Đại Tông Sư cũng có nói: “Đắc giả thời dã, thất giả thuận dã; an thời nhi xử thuận, ai lạc bất năng nhập dã, thử cổ chi sở vị huyền giải dã”(得 者 時 也,失 者 順 也,安 時 而 處 順 哀 樂 不 能 入 也,此 古 之 所 謂 縣 解 也。). Bởi vậy, chỗ mà Trang Tử gọi là huyền giải, là ám chỉ cảnh giới mà sống chết bằng nhau, quên cả sự đắc thất(同 死 生 忘 得 失 之 境 界).
5.     Cùng 窮, tức là hết(盡), ám chỉ củi. Củi là thân thể; lửa, là tinh thần. Củi tuy có chỗ tận, chỗ cùng, nhưng hết bó nầy đến bó kia (vô tận), thì lửa truyền từ bó củi nầy sang bó củi kia cũng vô đây. Ở đây ta thấy chủ trương của Trang Tử là tinh thần và vật chất đều nương nhau mà có, đều là một, và sinh tử cũng là một.


DỊCH NGHĨA

D. Lão Đam chết. Tần Thất đến điếu, khóc gào ba tiếng rồi bước ra.
Học trò hỏi:
- Không phải bạn của Thầy sao?
- Phải.
- Vậy thì, điếu như vậy coi được không?
- Được chứ! Trước kia, đó là bạn ta thật; nay thì không phải vậy nữa. Lúc nãy ta vào điếu, thấy có người già khóc như khóc con, có người trẻ khóc như khóc mẹ. Cái chỗ hợp lại đó (cái xác của ông ta), có cầu ai nói đến mà nói, có cầu ai khóc nó mà khóc. Thế là đã trốn trời, thêm tình, quên chỗ mình thọ lãnh. Người xưa gọi đó là hình phạt của sự trốn trời. Vui mà đến, là phu tử an thời; vui mà đi, là phu tử xử thuận. An thời xử thuận, thì buồn vui không sao xâm nhập cõi lòng. Người xưa cho rằng đó là tháo mở cái sợi dây mà Tạo hóa đã cột ta vào cõi sống. Thì cũng như việc lửa và củi, lửa truyền mãi không biết đến đâu là cùng.

⸈⸈⸈

“TỔNG BÌNH

Ở thiên Tề Vật, Trang Tử cho rằng sinh tử là một. Vậy sao còn quý cái sống mà dưỡng nó?
Hỏi thế là hỏi sai. Không ham sống, không sợ chết, xem tử như sinh, sinh như tử, và sinh tử là một, đó là cái đạo của Tề Vật. Nhưng ở cảnh nào phải biết vui với cảnh ấy[42]. Đang sống mà không lo dưỡng nó, để phải tật bệnh đau khổ, không biết thuận theo tự nhiên của đó mà dưỡng đó, thì còn đâu gọi là vui với đó! Không dưỡng đó để cho đó đau khổ, như vậy là cầu cái chết hay sao? Có biết bao kẻ quá đau khổ, đi cầu cái chết để thoát khổ của cảnh sống đầy tật bệnh, đó chẳng phải coi cái chết là quý sao? Như vậy đâu còn phải là cái đạo của Tề Vật nữa!”

“A. Những nguyên nhân làm cho ta thương sinh rất nhiều, nhưng không có chi nguy hiểm bằng tham vọng. Sự đèo bòng tham muốn chạy theo ngoại vật, cũng như chạy theo cái hiểu biết của cái học trục vật, đeo đuổi theo những vật bất thường và mộng ảo, là mối ưu tư không bờ bến làm mòn mỏi sinh lực con người không sao cứu được. Bởi vậy, ở đầu thiên Dưỡng Sinh, Trang Tử nói: “Sinh lực của ta thì có hạn, mà sự muốn biết của ta thì không bờ bến. Đem cái có hạn (như sinh lực của ta) để mà chạy theo cái không bờ bến (như lòng ham muốn) là nguy vậy! Đã biết thế mà còn không biết dừng, càng nguy hơn nữa.”
Tiến thêm bước nữa, ông nói: “Làm việc thiện mà không bị danh ràng buộc; làm việc ác mà không bị hình phạt tru lục. Thuận theo con đường giữa mà đi, thì có thể giữ được thân mình, có thể toàn được sinh mạng (...) có thể hưởng được tận tuổi trời.”
“Ở thiên Biền Mẫu 騙 拇 có đoạn giải rất rõ cái ý nghĩa trên đây: “Bá Di vì danh mà chết ở núi Thú Dương, còn Đạo Chích thì vì lợi mà chết ở gò Đông Lăng. Hai người ấy, tuy cái chỗ theo mà chết không giống nhau, nhưng đều làm tàn hại cái sống, thương tổn cái tánh mình cả. Chắc gì Bá Di là phải, mà Đạo Chích là quấy? Người trong thiên hạ đều chết theo như thế cả. Nếu mà cái mình chết theo ấy là nhân, là nghĩa, thì tục gọi là cái chết của người quân tử. Nếu cái mình chết theo ấy là tiền bạc, thì tục gọi là cái chết của tiểu nhân. Cái chỗ mà mình chết theo chỉ có một, vậy mà cũng quân tử tiểu nhân ư? Đến như cái việc tàn cái sống, tổn cái tánh, thì Đạo Chích cũng như Bá Di, đâu có khác nhau chỗ nào!”
“Người đạt Đạo, không thiên về lẽ phải hay lẽ quấy, hoặc nói cho đúng hơn, đã vượt lên trên phải quấy và đã“thuận theo con đường giữa” (duyên đốc dĩ vi kinh 緣 督 以 爲 經) nghĩa là gìn giữ quân bình(天 鈞), nên không thiên hẳn bên nào đến phải “chết vì một cái gì cả”dù là cho lẽ phải hay lẽ quấy nào. Đạo là quân bình, bao giờ cũng ở trên thiện ác, cho nên người đạt Đạo biết rằng thiện ác nương nhau mà có, trong thiện có ẩn cái ác, trong ác có ẩn cái thiện, cho nên không vì điều phải lẽ quấy nào cả, mà phải ràng buộc mình và lo âu đến phải thương sinh vì nó cả. Nghĩa là người đạt Đạo là kẻ hoàn toàn tự do, không còn nô lệ bất cứ một bảng giá trị về điều phải lẽ quấy của một thứ luân lý tịnh nào nữa cả, cổ cũng như kim.
⸈⸈⸈

“B. Lưỡi dao của Bào Đinh đi giữa xương thịt mà không chạm gân xương nên đặng lâu dài mà không mòn mẻ. Đạo dưỡng sinh của người cũng một thế: cứ hoạt động trong chỗ hư không, thuận với lý tự nhiên, thì vật không thương tổn được.
Lòng tham muốn của ta về những vật ngoài ta, khác nào như gân xương, còn sinh lực của ta khác nào như lưỡi dao. Hễ còn lòng tham muốn, đèo bòng theo những vật ngoài mình, tức là “những vật không tùng mình”...thì mới có lo sợ: lo được, sợ mất. Đắc thất, doanh hư, thị phi, vinh nhục...đều là những cớ để làm náo loạn tinh thần, thương tổn sinh mạng. Tranh đấu với những điều không thể tranh được, như thị phi, vinh nhục với những lẽ doanh hư đắc thất trong đời, thì tranh ắt phải thất, đó là đem “lưỡi dao bén” mà chạm vào “gân xương”, thì dao mòn lưỡi mẻ. Vì vậy mà Lão Tử mới đề xướng thuyết Bất tranh(不 爭):“Vì ta không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với ta”(夫 唯 不 爭 是 以 天 下 莫 能 與 之 爭).
Tranh với nhau, là vì còn cùng nhận một bảng giá trị như nhau, chứ đối với kẻ đã vượt lên trên mọi giá trị về thị phi, thiện ác...thì còn đi tranh với họ phải quấy làm gì được nữa. Có ai lại đi tranh giành phú quý với kẻ đã xem thường phú quý? Cho nên mới nói: “Vì ta không tranh, nên thiên hạ không ai tranh nổi với ta”.

⸈⸈⸈

“D. Lại còn một nguyên nhân nữa làm cho con người thành một con vật đau khổ nhất trên đời, là lòng ham sống, sợ chết. Lòng ham sống và sợ chết mà không còn, thì tinh thần ta mới không náo loạn. Tinh thần mà không náo loạn, thì bệnh hoạn do đâu mà sinh ra?
“Lão Đam chết. Tần Thất đến điếu, khóc gào ba tiếng rồi bước ra:
Học trò hỏi:
- Không phải bạn của Thầy sao?
- Phải.
- Vậy thì, điếu như thế coi được không?
- Được chứ! Trước kia, đó là bạn ta thật; nay thì không phải vậy nữa. Lúc nãy ta vào điếu thấy có người già khóc như khóc con, có người trẻ khóc như khóc mẹ. Cái xác ấy có cầu ai nói đến mà nói, có cầu ai khóc nó mà khóc. Thế là đã trốn Trời, thêm tình, quên chỗ mình thọ lãnh. Người xưa gọi đó là cái hình khổ của sự trốn Trời. Vui mà đến, là phu tử an thời, vui mà đi, là phu tử xử thuận. An thời xử thuận, thì buồn vui không sao xâm nhập được cõi lòng. “Người xưa gọi đó là cái hình khổ của sự trốn Trời. Vui mà đến, là phu tử an thời, vui mà đi, là phu tử xử thuận. An thời xử thuận, thì buồn vui không sao xâm nhập được cõi lòng. Người xưa gọi đó là huyền giải. Thì cũng như việc lửa với củi; lửa truyền mãi không biết đến đâu là cùng.”
Dùng lửa mà nhen củi, củi tận mà tưởng là lửa tận, đó là chỗ thấy của thường nhơn. Thật ra, củi có tận, mà lửa thì vô tận, truyền mãi từ bó củi nầy sang bó củi khác, không khác nào cái sống của ta truyền từ hình thể nầy qua hình thể kia(火 之 傳 於 新 猶 神 之 傳 於 形).

⸈⸈⸈

Dưỡng sinh có hai phương diện! Dưỡng cái sống “có sống có chết” (thân thể) và dưỡng cái sống “không sống không chết” (chân tính). Trên đây, là bàn về cái đạo dưỡng cái sống “có sống có chết”. Đến khi bàn đến cái sống “không sống không chết”, “Trang Tử kết luận bằng cái tỉ dụ “củi và lửa” như vầy: “khi lửa cháy hết bó củi nầy, thì truyền sang qua bó củi khác...không bao giờ tắt”. Cái sống “không sống không chết” như lửa, không bao giờ cùng. Hãy gìn giữ nó, và đừng bao giờ để nó vì tư tâm tư dục mà đèo bòng tham muốn những cái ngoài phận mình mà mờ tắt đi.”

“Dưỡng sinh cũng phải vừa lo trong, vừa lo ngoài, không nên thái quá hay bất cập.
Thiên Đạt Sinh 達 生 giải về cái đạo dưỡng sinh vừa bên trong bên ngoài nầy rất rõ: “Điền Khai Chi yết kiến Châu Uy Công. Uy Công nói: ‘Ta có nghe Thầy của khanh là Chúc Thận có được cái đạo sống. Khanh cùng Chúc Thận ở chung nhau, vậy khanh có nghe nói về đạo ấy không?’
Điền Khai Chi nói: ‘Tôi là đứa quét nhà, làm gì nghe đặng!’
Uy Công nói: ‘Điền tử chớ khiêm nhượng. Quả nhân muốn nghe điều đó. ’
Điền Khai Chi nói: ‘Nghe Thầy tôi nói: Người khéo dưỡng sinh giống như người chăn chiên. Thấy con nào lẻ bầy, thì quất nó (cho nó trở về với bầy). ’
Uy Công nói: ‘Nghĩa là sao?’
Điền Khai Chi nói: Tại nước Lỗ, có tên Đơn Báo ởtrong non, uống nước suối, không cùng người cộng lợi. Đã bảy mươi tuổi mà nhan sắc còn như đứa con nít. Rủi bị cọp đói bắt ăn. Cũng có tên Trương Nghị, không cửa cao nhà rộng nào mà y không chạy đến “(để cầu thân). Được bốn mươi tuổi, bị bệnh nội nhiệt mà chết. Báo, thì dưỡng phần trong mà cọp ăn phần ngoài; Nghị, thì dưỡng phần ngoài mà bị bệnh giết phần trong. Hai người đó đều không biết quất con chiên lẻ bầy. ’”
Trong và ngoài, là hai điều không thể lìa nhau. Vật chất, tinh thần, đối với Trang Tử, không phải chỉ ảnh hưởng lẫn nhau rất mật thiết mà thôi, hơn nữa, cả hai là một. Để cho lìa nhau, là sái với tự nhiên, không khác nào con chiên lạc bầy. Đánh cho nó trở về, là hợp lại hai lẽ “trong” và “ngoài”: đạo dưỡng sinh đến đó mới là đầy đủ và toàn hảo.

⸈⸈⸈

Đến như cái hại về sinh lực do sự sắc dục ăn uống mà gây nên, người dưỡng sinh cũng không nên không để ý:“Gặp nơi tử địa, anh em cha con còn biết lo sợ, răn bảo nhau đừng bước vào. Còn như trên chăn chiếu, giữa cuộc uống ăn, cũng là nơi tử địa, sao không mấy kẻ biết lo sợ, không biết răn nhủ nhau, lại còn mạo hiểm lăn mình vào, “thì là quá rồi!” (Đạt Sinh)

Nhất là đừng để kẻ khác lợi dụng lòng háo danh của mình để bắt mình phụng sự cho tư dục họ: Trang Tử, cũng trong thiên Đạt Sinh, có nói: “Một vị quan lãnh việc tế tự, nói với heo: ‘Sao bây ghét chết? Ta nuôi bây trọn ba tháng. Vì bây mà ta phải giữ ba ngày chay, mười ngày giới. Lúc tế, ta để bây trên chiếu trắng, trên mâm chạm. Bây còn phàn nàn nỗi gì nữa?’ Ôi! Nếu vị quan ấy, thật tình nuôi heo (vì nó), sao không để cho nó tự do ăn tấm cám, sao cũng được. Vị quan ấy thích sống theo áo mão, chết có quan quách, và cho vậy là vinh, rồi lại tưởng cho heo cũng như thế!”
Người ta nói: “Nuôi quân ngàn thuở, nhờ có một khi”...Và chỉ một khi thôi, nhưng có khi lại phải thương sinh tánh mạng là thường. . .”Trang Tử câu trên sông Bộc. Sở vương sai hai quan đại phu đem lễ vật mời ông ra làm quan. Trang Tử cầm cần câu không nhúc nhích cũng không thèm nhìn lại, nói: “Tôi nghe vua Sở có con thần quy, chết đã ba nghìn năm. Vua Sở quý nó và cất ”

“trên miếu đường. Con quy ấy chịu chết để lưu lại cái xương của mình cho người sau quý trọng, hay chịu thà sống mà kéo lê cái đuôi của mình trong bùn?’. Hai vị đại phu nói: ‘Thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn còn hơn!’. Trang Tử nói: ‘Thôi về đi! Ta đây cũng chịu kéo lê cái đuôi của mình trong bùn...’” (Thu Thủy)

Người theo đạo dưỡng sinh có đâu lại lao đầu vào vòng “cân đai áo mão”, “cá chậu chim lồng” để phải bị chặt chơn, lại còn ngoan cố ngụy biện cho là số trời[43]! “Con trĩ ở trong chầm, mười bước đi một lần mổ, trăm bước đi một lần uống, nhưng nào có mong được nuôi dưỡng ở trong lồng. . .” dù đó là một cái lồng sơn son thếp vàng...


(Trang tử Nam Hoa Kinh - Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú)









Bạn có thể thích những bài đăng này